Home 客观资料TưLiệu ChủQuyen VN Tham-Luận Biển Đông Chinese Landmen Bản-Đồ Nước Triệu km2 Hải-phận Việt-Nam - Triệu Km2 (tiếp) Forum Openings TàiLiệu PhápLư Hải-phận Cho Quốc-Gia Lào Law of the Sea RVN WhitePaper75 Monique-C-Gendreau Facts & Fictions VN vs Chinese VN Sovereignty VN Water Culture SRVN's View Observers' Seat Taiwan Analysis Naval Battles Time Line NguyễnNhă-NghiênCứu HoàngSa NguyễnNhă- HànChấnHoa CáchNhìn LịchSử XâmLược China Arguments China's Boundary China's Policy China Next War ChinaPropaganda-LuuVanLoi Giải Ảo! HăyTỉnh Giấc Mơ Ma Bộ H́nh ChiếnTrường HQ-4 AnhHùng NguyễnThànhSắc Hải-Chiến theo BùiThanh Các ChiếnHạm VN&TC ThamChiến ChiếnThuật ĐầuChữ T DanhSách CốThủ HoàngSa Danh-Sách Tử-Sĩ Hoàng-Sa Diễn-Tiến Trận Hải-Chiến Hải-Chiến theo Trung-Cộng HìnhẢnh HQ4 HảiChiến HoàngSa HQ16-HQ5 Bắn Nhau HQ5-Ră Ngũ Lệnh TamBấtĐả-HứaThếHữu Lố bịch kiểu Tàu phù Hải-Chiến theo LữCôngBảy NguyễnThượngLong-HảiChiến HoàngSa Đại-Tá Ngạc Ở Đâu Pḥng-Tai của HQ-4 QuanBinhTC HoàngSa1974 TàiLiệuHQ4-TổngCụcCTCT TâySa HảiChiến ThuỷThủĐoàn HQ-4 T́m Hiểu Gerald Kosh ToànTập TàiLiệu HCHS Tổng-kết Hải-Chiến Hồi Kư Của NgườiVề Từ HoaLục Trận HoàngSa Hồ Hải TrươngVănLiêm-HQ5 TruyệnNựcCười MấyAnh SửaQuân-Sử Nhớ lại HCHS & SuyNgẫm GiớiThiệu Dự Án Thư HT PhạmTrọngQuỳnh TrùmMền HôXungPhong
|
|
Nhớ lại và suy ngẫm về vụ Hải Chiến Hoàng Sa (1974)
Vương
Văn Bắc
Giới Thiệu: Ông Vương
Văn Bắc (1927-2011)
là một luật
sư và Tổng trưởng Ngoại giao của
Việt Nam Cộng ḥa vào những năm cuối cùng của quốc gia này. Vào đầu năm
1974 khi
Trung Cộng mở cuộc gây hấn ở
Quần đảo Hoàng Sa, tấn công lực lượng
Hải quân Việt Nam Cộng ḥa ngày
11
tháng 1 đóng ở nhóm Nguyệt Thiềm; căn cứ trên
đảo Hoàng Sa (Pattle) thất thủ. Ông xúc tiến soạn văn kiện Tuyên cáo chủ
quyền VNCH năm 1974 trên hải đảo Trường Sa và Hoàng Sa”, “Tuyên cáo của Bộ
Ngoại Giao VNCH về việc Trung Cộng xâm lược đảo Hoàng Sa năm 1974”, và “Bạch
thư của VNCH” đầu năm 1975 lên án vụ chiếm đoạt trước công đàn quốc tế...
Đây
là bài Cựu Ngoại
Trưởng Vương Văn Bắc
viết xong tại Paris ngày 2-4-2007. Một bản được thông báo ông Vũ Hữu San để
tác giả này đăng tiếp nối theo một bài trước của Ông viết bằng Anh Ngữ (trong
cuốn sách "Tài liệu Hải Chiến Hoàng Sa, 2004"}
Tuy biến cố
lịch sử này xảy ra cách đây đă trên ba mươi năm, trận hải chiến Hoàng Sa
(19.01.1974) vẫn c̣n để lại trong đầu óc tôi một ấn tượng đậm nét. Điều này
dễ hiểu v́ ai c̣n tha thiết đến vận mệnh của tổ quốc quê hương mà không đau
buồn, chừng nào c̣n một mảnh đất của ông cha để lại, dù nhỏ bé hay xa xôi
đến đâu, vẫn bị ngoại bang chiếm cứ trái phép mà ḿnh chưa giành lại được.
Riêng đối với tôi, cảm xúc ấy càng sâu đậm hơn v́ vụ Trung Cộng cưỡng chiếm
Hoàng Sa xẩy ra ngay sau khi tôi được giao phó trách nhiệm điều khiển Bộ
Ngoại Giao chưa đầy ba tháng (ngày 08.11.1973), nên vụ ấy đă là thử thách
đầu tiên mà tôi phải đối phó trong chức vụ ngoại trưởng Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH).
Sau đây tôi sẽ ghi lại sơ lược những chuyện tôi c̣n nhớ và những điều tôi
suy ngẫm về biến cố Hoàng Sa. Làm công việc ấy, tôi sẽ cố gắng hoàn toàn tôn
trọng sự thật. Thảng hoặc có điều ǵ thiếu sót hoặc sai lạc ít nhiều về chi
tiết th́ cũng chỉ là v́ thiếu tài liệu tra cứu (tôi không đem theo ḿnh bản
chính hay bản sao các văn kiện lưu trữ tại Bộ về vấn đề này), hoặc v́ trí
nhớ đă suy giảm theo thời gian (tôi đă đến tuổi tám mươi).
1/ Phần đóng góp của Bộ Ngoại Giao
Trong thời kỳ sôi động đă chứng kiến vụ hải chiến Hoàng Sa, Bộ Ngoại Giao
VNCH có đóng góp vào nỗ lực bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lănh
thổ của toàn quân toàn dân miền Nam hay không, và nếu có th́ dưới h́nh thức
nào?
Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết tôi cần minh xác là Bộ Ngoại Giao cũng
như cá nhân tôi không hề được Tổng Thống hay quư vị Tổng Trưởng Quốc Pḥng,
Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh binh chủng hoặc Tư Lệnh vùng tham khảo ư kiến
hay thông báo diễn tiến về các vấn đề quân sự, các cuộc hành quân… Đây cũng
là một điều tự nhiên và hợp lư v́ các nhân viên Bộ Ngoại Giao cũng như cá
nhân tôi không có thẩm quyền pháp định hay kiến thức chuyên môn trong lănh
vực này. Ngược lại, dĩ nhiên chúng tôi được tham khảo ư kiến và tŕnh bày đề
nghị của ḿnh về khía cạnh quốc tế mà các vấn đề hay các hành động ấy có thể
đặt ra. Chẳng hạn, trong vụ Hoàng Sa, Bộ Ngoại Giao đă đề nghị và dự thảo
bản Tuyên Cáo ngày 14.02.1974 của Chính Phủ VNCH nhằm khẳng định chủ quyền
của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau vụ xâm lược của
Trung Quốc.
Tôi không nhớ có một phiên họp của Nội Các VNCH vào ngày 17.01.1974 hay
không, nếu có th́ phiên họp ấy đă đề cập tới những vấn đề ǵ và đưa ra những
quyết định nào liên quan đến vụ Hoàng Sa. Trái lại, tôi c̣n nhớ có tham dự
một cuộc họp cấp cao ở miền duyên hải Trung Phần để thảo luận về vụ Hoàng
Sa, sau khi quần đảo này đă bị Trung Cộng cưỡng đoạt. Tôi nhớ trong buổi họp
này có mặt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đại tướng Cao Văn Viên và mấy vị
khác mà ngày nay tôi không c̣n nhớ rơ tính danh và chức vụ. Tôi c̣n nhớ một
chi tiết qua phần tŕnh bầy của đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng: v́ khoảng
cách quá xa giữa Đà Nẵng và quần đảo Hoàng Sa, máy bay của ta dù có trang bị
thêm những bầu chứa nhiên liệu cũng chỉ có thể tác chiến trên vùng trời
Hoàng Sa khoảng mười lăm phút mà thôi, do đó ta không thể cung cấp cho quân
đổ bộ hay quân đồn trú của ta trên đảo một sự yểm trợ không lực hữu hiệu.
Tuy không có sự hiểu biết chuyên môn về vấn đề, tôi cũng ư thức được là
trong một cuộc chiến hiện đại, nếu không đem lại cho các lực lượng đổ bộ
không-yểm đầy đủ th́ toan tính cho quân đổ bộ chiếm lại quần đảo Hoàng Sa sẽ
chỉ là một hành động phiêu lưu vô vọng.
Trong phạm vi nhiệm vụ của ḿnh, Bộ Ngoại Giao đă góp phần vào cuộc tranh
đấu của toàn dân Miền Nam Việt Nam để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lănh
thổ của quốc gia. Sự đóng góp ấy đă thể hiện dưới nhiều h́nh thức, trước
cũng như sau ngày Trung Cộng cưỡng chiếm Hoàng Sa.
(a) Trước ngày 19.01.1974
- Ngày 11.01.1974, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Cộng đột nhiên tuyên
bố rằng quần đảo Tây Sa (chỉ quần đảo Hoàng Sa của ta) và quần đảo Nam Sa (chỉ
quần đạo Trường Sa của ta) thuộc lănh thổ Trung Quốc.
Lời tuyên bố ngang ngược này không phải chỉ là một lời phát biểu bừa băi
trong lúc bốc đồng mà chính là khởi điểm của mưu đồ thôn tính bằng vũ lực
một phần lănh thổ của Việt Nam. Quả vậy, sau đó Trung Cộng đă cho một số tầu
đánh cá có vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa và đổ bộ lên những ḥn đảo
không có quân lực VNCH đồn trú.
- Ngay ngày hôm sau, 12.01.1974, với tư cách Ngoại Trưởng VNCH, tôi đă chính
thức và cương quyết lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố vô căn cứ của Bộ Ngoại
Giao Trung Quốc và lên án hành động gây hấn của nước này.
- Ngày 16.01.1974, cũng với tư cách Ngoại Trưởng VNCH, tôi đă gửi công điệp
cho ông Chủ Tịch Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để lưu ư Hội Đồng Bảo An tới
t́nh h́nh căng thẳng nghiêm trọng gây ra bởi lời tuyên bố ngang ngược và
những hành vi trái phép của Trung Cộng trong vùng Hoàng Sa, có khả năng đe
dọa ḥa b́nh và an ninh tại vùng này. Chính phủ VNCH yêu cầu Hội Đồng Bảo An
LHQ ban bố mọi biện pháp thích nghi để cải thiện t́nh h́nh.
(b) Sau ngày 19.01.1974
- Ngày 19.01.1974, khi trận hải chiến Hoàng Sa khởi diễn, dựa trên những
tin tức đầu tiên nhận được, Bộ Ngoại Giao đă đưa ra tuyên cáo lên án ‘chánh
sách bành trướng đế quốc mà Trung Cộng liên tục theo đuổi, đă được biểu lộ
qua cuộc thôn tính Tây Tạng, cuộc xâm lăng Đại Hàn và Ấn Độ trước kia’ và
‘kêu gọi toàn thể các dân tộc yêu chuộng công lư và ḥa b́nh hăy cương quyết
lên án các hành vi chiến tranh thô bạo… buộc Trung Cộng phải tức khắc chấm
dứt các hành động nguy hiểm đó’. Bản tuyên cáo kết luận: “Trong suốt lịch sử,
dân tộc Việt Nam đă đánh bại nhiều cuộc ngoại xâm. Ngày nay Chánh phủ và
nhân dân Việt Nam Cộng Ḥa cũng nhất định bảo vệ sự toàn vẹn của lănh tổ
quốc gia”(1).
---------------------
(1) Toàn văn bản Tuyên
Cáo 015 / BNG / TTBC / TT có được đăng trong sách của Ô. Vũ Hữu San – Trần
Đỗ Cẩm, ‘Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa’, tr. 160, 161.
-----------------------
- Ngày
20.01.1974, khi chiến sự c̣n tiếp diễn trong vùng Hoàng Sa, tôi đă gửi công
hàm cho ông Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc để yêu cầu vị này, chiếu điều 99 Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc, lưu ư Hội Đồng Bảo An về t́nh h́nh nghiêm trọng gây
ra bởi hành động xâm lược của Trung Cộng.
- Ngày 21.01.1974, Bộ Ngoại Giao VNCH đă gửi văn thư cho các quốc gia thành
viên của Hội Nghị Quốc Tế Paris về Việt Nam, trong đó có Trung Cộng (Hội
Nghị này được dự liệu ở điều 19 của hiệp định Paris ngày 27.01.1974 về Chấm
Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Ḥa B́nh ở Việt Nam), để cảnh báo về hiểm họa gây
ra bởi việc Trung Cộng dùng vũ lực xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
- Cũng ngày 21.01.1974, tôi đă triệu tập một buổi họp các trưởng nhiệm sở
của tất cả các sứ quán nước bạn ở Sài G̣n tại trụ sở Bộ Ngoại Giao, để tố
cáo hành động xâm lược của Trung Cộng và yêu cầu các nước bạn của VNCH lên
tiếng bầy tỏ thái độ và ban hành những biện pháp thích hợp trước biến cố này.(2)
---------------------------------
(2) Xin xem Vũ Hữu San
– Trần Đỗ Cẩm, sách đă viện dẫn, tr. 214-216.
------------------------------
- Ngày 14.02.1974, Chính Phủ VNCH công bố một bản Tuyên Cáo, long trọng xác
nhận chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng
định Việt Nam Cộng Ḥa sẽ tiếp tục đấu tranh để tái lập và bảo vệ chủ quyền
của ḿnh trên những hải đảo ấy. Tuy vẫn sẵn sàng giải quyết mọi tranh chấp
quốc tế bằng đường lối ôn ḥa, điều này không có nghĩa là Việt Nam chấp nhận
từ bỏ chủ quyền của ḿnh trên một phần nào của lănh thổ quốc gia. Bản tuyên
cáo này do Bộ Ngoại Giao đề xướng và dự thảo.
- Ngày 22.03.1974, với tư cách Ngoại Trưởng VNCH, tôi đă đến New York hội
kiến với Tổng Thư Kư Liên Hiệp Quốc Kurt Waldheim tại trụ sở Liên Hiệp Quốc
để tái xác định lập trường của VNCH về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa.
- Tháng 6.1974, nhân dịp Liên Hiệp Quốc triệu tập Hội Nghị Quốc Tế về Luật
Biển tại Caracas, thủ đô Venezuela (Nam Mỹ), tôi đă đích thân hướng dẫn phái
đoàn VNCH đến tham dự hội nghị này, với chủ đích là xác định, trước một hội
nghị quốc tế quan trọng, rằng Hoàng Sa và Trường Sa là phần bất khả phân ly
của lănh thổ Việt Nam. Có lẽ họ cũng dự đoán được ư định của ta nên phái
đoàn Trung Cộng đă rời bỏ pḥng hội nghị ra ngoài khi tôi bước lên diễn đàn
để phát biểu, nhưng sự cố này cũng không ngăn cản được phái đoàn VNCH chính
thức tŕnh bầy lập trường của ḿnh trước hội nghị luật biển Caracas.
- Giữa năm 1974, tôi đă cho lập tại Bộ Ngoại Giao một nhóm đặc trách soạn
thảo Bạch Thư về Hoàng Sa – Trường Sa (White Paper on the Hoang Sa and
Truong Sa islands) với nhiệm vụ thu thập và tŕnh bầy những chứng liệu chắc
chắn để chứng minh chủ quyền không thể chối căi được của Việt Nam trên hai
quần đảo này. Ấn bản Việt ngữ và Anh ngữ của công tŕnh này đă được Bộ Ngoại
Giao phổ biến rộng răi để giúp các quốc gia và công luận trong thế giới biết
rơ hơn những cơ sở chính đáng và đầy đủ tín lực chứng tỏ chủ quyền của ta
trên các quần đảo này. Cuốn Bạch Thư này cũng sẽ là một tài liệu hữu ích và
tiện dụng nhằm bênh vực lập trường của Việt Nam trong mọi thủ tục tố tụng
hay trọng tài quốc tế mai hậu, về vấn đề chủ quyền trên các quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
- Trong cấp thời, ngay sau khi trận hải chiến Hoàng Sa chấm dứt, Bộ Ngoại
Giao VNCH đă tiến hành một cuộc vận động ngoại giao rộng răi trên trường
quốc tế để gây áp lực buộc Trung Cộng trả lại tự do cho những binh sĩ hải
quân, địa phương quân và những nhân viên dân chính của ta bị địch bắt giữ
trái phép trong cuộc cưỡng chiếm Hoàng Sa. Cuộc vận động này đă đem lại kết
quả mau chóng: ngày 17.02.1974, chưa đầy một tháng sau ngày bị chiếm cứ,
Trung Cộng đă phải trao trả toàn thể bốn mươi tám tù binh VNCH cho Hội Hồng
Thập Tự Quốc Tế để trả về Việt Nam Cộng Ḥa. Vụ bàn giao này đă diễn ra trên
cầu biên giới giữa nhượng địa Hồng Kông và Hoa Lục. Vị trưởng nhiệm sở ngoại
giao của Việt Nam Cộng Ḥa ở Hồng Kông đă có mặt để chào đón các chiến sĩ
anh dũng khi họ vừa được trả tự do và sắp hồi hương.
Cũng nên nhận xét là những bản tuyên cáo, những văn thư, công hàm, những bài
phát biểu để tố cáo xâm lược, xác định chủ quyền, nêu rơ quyết tâm giành lại
phần lănh thổ quốc gia bị cưỡng đoạt phi pháp... không phải chỉ là những cử
chỉ trống rỗng, những lời nói suông nhằm che đậy thất bại thực sự. Đó là
những hành vi cần thiết, có giá trị và có hiệu lực bảo lưu chủ quyền của
nước ta trên các hải đảo tranh chấp. Đó là những chứng tích không thể phủ
nhận được, cho thấy rơ là khi Trung Cộng kéo quân đến chiếm Hoàng Sa, họ đă
không phát hiện được một mảnh đất vô chủ, hoặc đă được Việt Nam ưng thuận
nhượng dữ chủ quyền. Nếu các chiến sĩ của ta đă không chiến đấu can trường
chống những kẻ đă ngang ngược xâm phạm bờ cơi của nước ta, nếu chính phủ ta
đă lẳng lặng cam chịu th́ sau này chúng ta dựa vào đâu để chống lại lời biện
bác của địch là chính Nhà Nước và nhân dân Việt Nam cũng không tin chắc ḿnh
có chủ quyền thực sự trên quần đảo tranh chấp, và dẫu sao th́ cũng đă mặc
nhiên chấp nhận sự kiện Trung Quốc tự nhận là chủ phần đất này.
Suy ngẫm về sự đóng góp của Bộ Ngoại Giao VNCH, tôi cũng đă có những nỗi băn
khoăn, những cảm xúc trái ngược mà một vài vị sĩ quan Hải Quân VNCH đă biểu
lộ khi bàn về trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Một mặt các vị ấy tỏ ra tự
hào (phản ứng này thực chính đáng) về cuộc chiến đấu dũng cảm và tinh thần
phục vụ cao của đồng đội trong trận này, chứng tỏ họ xứng đáng là thừa kế
của những bậc anh hùng đă từng ‘đoạt sáo Chương Dương độ, cầm hồ Hàm Tử quan’.
Nhưng mặt khác, các vị ấy cũng cảm thấy bùi ngùi v́ nhận xét là rốt cuộc,
quần đảo Hoàng Sa đă mất, nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa đă không chu toàn.
Cũng như vậy, một mặt tôi cảm thấy phấn khởi và tự hào v́ thấy rằng, trong
thời kỳ sôi động ấy, các anh chị em nhân viên Bộ Ngoại Giao, từ cấp chỉ huy
đến cấp thừa hành, đă tận tụy phục vụ để hỗ trợ đắc lực và kịp thời cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhưng mặt khác, tôi
không khỏi đau buồn khi nhận thấy là mục đích tối hậu của cuộc vận động
ngoại giao lớn rộng của ta đă không đạt được, mục đích ấy là dấy lên được
trên chính trường và trong dư luận quốc tế một làn sóng chống đối và lên án
Trung Cộng cưỡng chiếm Hoàng Sa, khiến cho họ phải chùn bước rút quân, trả
lại quần đảo ấy cho chân chính sở hữu chủ là Việt Nam. Có thể cuộc vận động
ngoại giao của chúng ta đă gặt được một vài kết quả cục bộ, như là làm cho
Trung Cộng phải sớm trả lại tự do cho những người Việt bị họ giữ trái phép,
đồng thời phải tạm ngưng bước chân xâm lăng trên Biển Đông. Nhưng sự thật
chua chát vẫn là Hoàng Sa bị cướp mất năm 1974 và chưa được trả lại.
Sự trạng này gợi lên một câu hỏi: thất bại ấy v́ đâu? v́ thời thế quá bất
lợi cho ta đến nỗi sức người không vượt nổi trợ lực, hay chỉ v́ chúng ta
thua tài kém trí?
2/ Thời thế bất lợi
Bàn về những khó khăn gặp phải trong công cuộc bảo vệ và khôi phục chủ quyền
của nước ta trên quần đảo Hoàng Sa, hầu hết mọi người đều đồng ư là bối cảnh
quốc tế đă trở nên bất lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa, chủ yếu là do sự xích lại
gần nhau giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ sau chuyến viếng thăm Trung Hoa của Tổng
Thống Nixon năm 1972. Điều này đúng nhưng chưa đủ. Ta cần phân tích sâu xa
hơn t́nh h́nh thế giới và Việt Nam vào thời kỳ đầu thập kỷ 1970, nhiên hậu
mới có được một ư niệm chính xác hơn về mức độ của những trở lực mà VNCH gặp
phải trên đường đi đ̣i công lư về vụ Hoàng Sa.
(a) Bối cảnh quốc tế
Một sự kiện đáng để ư là, ba tháng trước khi cuộc tranh chấp Hoàng Sa bùng
nổ (19.01.1974), một cuộc chiến tranh ngắn ngủi nhưng ác liệt đă xẩy ra ở
vùng Trung Đông. Đó là cuộc chiến tranh Yom Kippour, khởi đầu với vụ quân
đội Ai Cập (Egypte) bất thần tấn công quân đội Israel ở vùng kênh đào Suez,
ngày 06.10.1973, trong lúc Do Thái đang cử hành lễ Yom Kippour. Ba ngày sau
đó, liên quân Syrie, Irak và Jordanie tấn công Israel trên mặt trận đồi
Golan. T́nh h́nh trở nên cực kỳ nghiêm trọng sau khi Liên Xô tiếp tế nhiều
vũ khí hiện đại cho các nước Ả Rập tham chiến và Hoa Kỳ hỏa tốc tiếp tế vơ
khí cho Israel. Như đổ dầu vào lửa, các quốc gia Ả Rập có chân trong tổ chức
các quốc gia xuất cảng dầu lửa (O.P.E.C hay O.P.E.P) nhóm họp tại Koweit
ngày 17.10.1973 quyết định giảm đáng kể mức khai thác dầu hỏa, đồng thời
giảm số lượng dầu xuất khẩu sang các nước Tây Âu và Hoa Kỳ. Cuộc khủng hoảng
gây ra bởi cuộc chiến tranh Yom Kippour trầm trọng đến mức tổng thống Hoa Kỳ
Nixon đă phải đặt các lực lượng vũ trang nguyên tử của Mỹ vào t́nh trạng báo
động. Nhờ có thương thuyết trực tiếp giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, một quyết nghị
hưu chiến đă được biểu quyết tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào cuối
tháng 10.1974, rồi một lực lượng mũ xanh do Liên Hiệp Quốc tập hợp đă được
gửi tới chiến địa để kiểm soát t́nh h́nh vẫn căng thẳng và chiến sự có thể
bùng lên bất cứ lúc nào. Hơn nữa, quyết định của các nước Ả Rập trong
O.P.E.C hạn chế sản xuất và xuất khẩu dầu lửa đă đẩy thế giới đi vào một
cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trong t́nh trạng dầu sôi lửa bỏng ấy,
thử hỏi làm sao có thể thuyết phục các nước Tây Phương và các nước trong thế
giới đệ tam chú mục đến một cuộc tranh chấp về một quần đảo nhỏ ở Biển Đông
và kiên quyến đ̣i kẻ xâm lăng phải rút khỏi nơi đó, nhất là khi kẻ xâm lăng
này lại là một nước lớn mạnh?
(b) Bối cảnh quốc nội
Theo thiển ư của tôi, một trở lực c̣n to tát hơn cả trở lực gây ra bởi t́nh
trạng thế giới bất ổn định sau cuộc chiến tranh Yom Kippour ở Trung Đông, đó
là t́nh trạng chia rẽ ở Việt Nam vào thời kỳ hải chiến Hoàng Sa.
Thực vậy, lịch sử nước ta cho thấy rằng tuy luôn luôn có xu thế bành trướng
lănh thổ và ảnh hưởng về phía Nam, Trung Quốc vẫn phải ngưng chân hay lui
bước khi dân tộc ta đoàn kết chặt chẽ. Trong quá khứ, sau khi Thoát Hoan
trốn chạy về Tàu hay sau khi Tôn Sĩ Nghị lội sông tháo lui, khởi thủy triều
đ́nh Trung Hoa cũng dự tính xua quân sang xâm lược Việt Nam lần nữa, nhưng
sau lại bỏ ư định đó và nhận lời cầu ḥa v́ ngại phải đụng độ một lần nữa
với khí thế Diên Hồng, với khối đoàn kết keo sơn của toàn dân Việt Nam. Từ
những kinh nghiệm ấy, ta có thể suy ra rằng muốn làm nản ḷng hay đánh bại
một cuộc xâm lăng lănh thổ Việt Nam phát xuất từ phương Bắc, điều kiện cần
thiết đầu tiên là dân tộc Việt Nam phải tạo thành một khối rắn chắc, phát
huy một ư chí chung là đồng ḷng chống ngoại xâm.
Điều kiện thiết yếu này đă vắng bóng một cách tuyệt vọng khi xẩy ra vụ Hoàng
Sa. Chính quyền cộng sản Hà Nội đă hoàn toàn giữ im lặng và bất động khi
Trung Cộng tung ra huyền thoại về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa
cũng như khi Trung Cộng ngang nhiên dùng vũ lực cướp đoạt quần đảo. Hà Nội
đă không nói một lời ủng hộ nào, hay phác họa một cử chỉ nào để yểm trợ Việt
Nam Cộng Ḥa trong nỗ lực phải đối, chống trả bọn xâm lăng nước ngoài và yêu
sách chúng phải hoàn trả Hoàng Sa cho Việt Nam. Thái độ bàng quan tiêu cực
ấy dĩ nhiên đă làm cho bọn xâm lược vững ḷng hơn để tiếp tục hành động trái
phép, cũng như đă triệt tiêu phần lớn tín lực và hiệu quả của những điều
khẳng quyết của Việt Nam Cộng Ḥa, theo đó quần đảo Hoàng Sa chính thức
thuộc chủ quyền của ḿnh và toàn dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền
này.
Không phải chúng ta không ư thức được nhược điểm ấy, hay không hiểu rằng
tiếng nói của chúng ta trên trường quốc tế sẽ được để ư nhiều hơn nếu ta
chứng minh được là, bất luận những trục trặc khó khăn c̣n gặp phải trong quá
tŕnh thi hành Hiệp Định Paris 27.01.1973 về Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập
Ḥa B́nh ở Việt Nam, hai miền Nam Bắc vẫn có thể ngồi với nhau thương nghị
để cùng lo liệu về những quyền lợi cơ bản của đất nước Việt Nam. Quả vậy, đă
ba lần trong năm 1974, với tư cách Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Ḥa, tôi đă đề
nghị đến gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao của chính quyền Hà Nội để cùng thảo luận
về những vấn đề đất nước, trong cuộc họp báo ngày 26.02.1974 tại Trụ sở Bộ
Ngoại Giao ở Sài G̣n, trong một cuộc họp báo ngày 16.05.1974 cũng ở Sài G̣n,
và sau hết vào ngày 20.07.1974, nhân dịp đưa ra bản tuyên cáo kỷ niệm ngày
chia đôi đất nước. Cả ba lần đó, Hà Nội đều làm ngơ không đáp ứng tích cực,
chắc v́ họ tin vào đường lối chinh phục miền Nam bằng bạo lực, không kể ǵ
đến Hiệp Định Paris. Trong hoàn cảnh ấy, Trung Cộng không có cớ ǵ để e ngại
và thế giới không có lư do ǵ để tin chắc là nhân dân Việt Nam, muôn người
như một, cương quyết đứng lên chống lại những kẻ ḍm ngó các quần đảo trong
Biển Đông thuộc lănh thổ của Việt Nam.
(c) Cơ chế quốc tế bất lợi cho ta
Môt trở lực đáng kể khác cho sự thỏa măn nguyện vọng chính đáng của Việt Nam
về vấn đề Hoàng Sa là, trong hiện trạng của các cơ quan quốc tế có thẩm
quyền và nhiệm vụ giải quyết những vụ tranh chấp lănh thổ, đơn khiếu nại của
Việt Nam Cộng Ḥa chống Trung Quốc về vụ Hoàng Sa rất ít hy vọng thụ lư và
phán xét.
Cơ quan đầu tiên được mọi người nghĩ đến là Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
Thực vậy Hội Đồng Bảo An là cơ quan Liên Hiệp Quốc có trách nhiệm duy tŕ an
ninh và ḥa b́nh quốc tế, mà vụ Trung Cộng xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa có
thể được xem như một hành động đe dọa an ninh và ḥa b́nh trên thế giới. Do
đó, Hội Đồng Bảo An có thẩm quyền biểu quyết những biện pháp chế tài
(sanctions) và đ̣i các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc thi hành những biện
pháp ấy chống với quốc gia bị xác định là đe dọa ḥa b́nh hoặc đă có hành vi
xâm lược (điều 39 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc). Tuy nhiên, v́ Trung Quốc là
một trong năm quốc gia hội viên thường trực có quyền phủ quyết tại Hội Đồng
Bảo An nên không có triển vọng là cơ quan này biểu quyết như vậy chống Trung
Quốc.
Cũng không có triển vọng là Ṭa Án Quốc Tế (International Court of Justice)
sẽ thụ lư đơn kiện của Việt Nam Cộng Ḥa chống Trung Cộng. Điều này không
liên quan ǵ đến sự kiện VNCH chỉ là “quan sát viên” chứ không phải “thành
viên thực thụ” của Liên Hiệp Quốc, mà chỉ v́ thủ tục được áp dụng trước Ṭa
Án Quốc Tế, theo đó Ṭa này chỉ thụ lư vụ tranh chấp nếu quốc gia bị cáo
minh thị chấp thuận sự xét xử ấy.(3)
Ngay cả trong trường hợp vạn nhất hồ sơ vụ tranh chấp Hoàng Sa được chuyển
sang Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc để biểu quyết, ta cũng rất ít có hy vọng
t́m thấy ở đó một đa số áp đảo để lên án Trung Cộng xâm lăng, căn cứ trên
những thực tại ghi trong phần ‘Bối Cảnh Quốc Tế’ ở trên, căn cứ trên sự kiện
là theo kết quả cuộc biểu quyết tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp nhận
cho Trung Cộng gia nhập Liên Hiệp Quốc thay thế cho Trung Hoa Quốc Gia với
76 phiếu thuận, 36 phiếu chống và 17 phiếu trắng ngày 26.10.1971, mới khoảng
hơn hai năm trước ngày hải chiến Hoàng Sa. Với vị thế thuận lợi ấy, Trung
Cộng không có lư do lo sợ là họ sẽ bị Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc biểu quyết,
với đa số cần thiết, lên án và trừng phạt họ về vụ Hoàng Sa.
3/ Thái độ của Hoa Kỳ về vụ Hoàng Sa
Như đă tŕnh bày trên đây, trong phần viết về sự đóng góp của Bộ Ngoại Giao,
sau khi Trung Cộng xâm nhập hải phận Hoàng Sa và có hành động gây hấn để xâm
phạm chủ quyền của ta trong vùng này, chúng ta đă tố cáo những hành vi phi
pháp ấy và kêu gọi sự hỗ trợ để chống lại cuộc xâm lược ấy với Liên Hiệp
Quốc và các quốc gia thân hữu, trong đó có Hoa Kỳ nhưng không phải chỉ có
Hoa Kỳ.
Phản ứng của Hoa Kỳ đă rơ ràng. Trước hết qua đường lối liên lạc ngoại giao,
sau đó qua những lời tuyên bố chính thức của Bộ Ngoại Giao Mỹ, Hoa Kỳ cho
hay rằng họ không muốn dính dáng vào một vụ tranh chấp có nguồn gốc khá phức
tạp trong lịch sử; họ cầu mong giữa đôi bên có được sự dàn xếp ḥa b́nh. Nói
rơ hơn, Hoa Kỳ không muốn can thiệp vào vụ này, không muốn đứng hẳn vào một
bên để chống lại bên kia.
Những lư do đă thúc đẩy Hoa Kỳ chọn lựa thái độ ấy, theo ư tôi, là những lư
do sau đây:
- Khi kư kết Hiệp Định Paris ngày 27.01.1973 về Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái
Lập Ḥa B́nh ở Việt Nam, chính phủ Hoa Kỳ đă dứt khoát lựa chọn đường lối
giải kết ở Việt Nam nên không muốn v́ vụ Hoàng Sa mà lại phải can thiệp trở
lại ở đây. Một vụ đảo ngược chính sách bất thần như vậy có khả năng làm cho
chính quyền gặp nhiều khó khăn tại Quốc Hội, trong dư luận quần chúng và với
các nước đồng minh.
- Sau chuyến công du của Tổng Thống Nixon sang Trung Quốc năm 1972, Trung
Quốc đă trở thành ‘đồng minh khách quan’ của Hoa Kỳ để ḱm chân và chống lại
Liên Xô. Hoa Kỳ không muốn mối quan hệ chiến lược hệ trọng này bị rạn nứt
hay bị đứt đoạn v́ vụ Hoàng Sa.
- Như đă tŕnh bày trong phần ‘Bối Cảnh Quốc Tế’, cuộc chiến tranh Yom
Kippour hồi tháng 10 năm 1973 đă gây ra một t́nh trạng căng thẳng rất nguy
hiểm tại Trung Đông và một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng trên thế giới.
Chúng ta đều biết tầm quan trọng hàng đầu của vùng Trung Đông đối với Hoa Kỳ,
về các mặt kinh tế, chính trị, chiến lược. Bởi vậy, trong thời kỳ hậu Yom
Kippour, Hoa Kỳ không thể tự cho phép ḿnh phân tán mỏng lực lượng quân sự
của ḿnh trên nhiều điểm nóng trên thế giới. Do đó, họ muốn tránh một cuộc
đương đầu với Trung Quốc trong vùng Thái B́nh Dương về vụ Hoàng Sa.
Tôi thấy mấy lư do quan trọng ấy cũng đủ làm ta hiểu tại sao Hoa Kỳ đă lựa
chọn thái độ bàng quan trước vụ tranh chấp Hoàng Sa giữa Trung Quốc và ta,
khỏi cần phải đề cập đến giả thuyết là đă có một thỏa ước ngầm giữa Hoa Kỳ
và Trung Quốc để nước này mặc sức làm mưa làm gió trong vùng Biển Đông. Cũng
cần xác minh rằng trên đây là một cố gắng phân tích khách quan để hiểu tại
sao Hoa Kỳ có thái độ ‘người dưng’ trong vụ Hoàng Sa, chứ không hàm ư bênh
vực hoặc chê bai. Nếu có nghĩ ngợi th́ cũng chỉ là nhớ đến một câu nói bất
hủ của một chính khách Pháp: “Một nước lớn không có bạn thân mà chỉ có những
quyền lợi”.
4/ Về câu chuyện nổ súng mà mất đảo
Có dư luận cho rằng, mặc dù bị Trung Cộng khiêu khích, nếu chùng ta không
đánh th́ t́nh h́nh Hoàng Sa vẫn chưa ngă ngũ và Trung Cộng vẫn không chiếm
trọn quần đảo Hoàng Sa.
Bản tính tôi ưa bàn về những chuyện có thực, những lư luận có căn cứ trên
những sự kiện có thực, chứ không muốn luận bàn về những giả thuyết và những
phỏng đoán vô bằng. Tôi có bị ảnh hưởng của câu châm biếm phổ thông của dân
Pháp: “Với những chữ ‘nếu’ người ta có thể bỏ thủ đô Paris vào trong một cái
lọ”.
Tuy nhiên, tôi thiển nghĩ giả thuyết nhắc lại trên đây không đứng vững nếu
ta để ư đến mấy nhận xét theo lương tri thông thường sau đây:
- Không phải v́ con đà điểu chúi đầu xuống cát để khỏi trông thấy, nghe thấy
nữa mà nguy hiểm sẽ tan biến đi. Như lời một chính khách Mỹ mà đời sống bị
đe dọa đă nói: “Làm ǵ có an ninh trong sự lủi trốn?”. Nếu hồi tháng 1 năm
1974, Hải Quân của ta không nổ súng trước sự xâm lăng trắng trợn của đối
phương mà lại lẳng lặng rút đi th́ điều đó chắc sẽ có hậu quả khuyến khích
Trung Cộng xúc tiến việc thôn tính các hải đảo c̣n lại của ta ở Biển Đông v́
không gặp chống đối, hơn là thúc giục họ giữ nguyên hiện trạng.
- Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa (rồi Trường Sa về sau này) hẳn là theo một
kế hoạch đă soạn thảo từ lâu và ở cấp cao nhất, nhằm biến vùng Biển Đông
thành một thứ ‘biển nhà, ao nhà’ (Mare Nostrum), chứ không thể là kết quả
của một phút bốc đồng, trong một cơn phẫn nộ nhất thời. Giả thuyết sau trái
với những nhận xét kinh nghiệm của ta về bản tính của người Hán tộc: họ
thường mưu trí, tính toán, chứ không phải là thứ người nông nổi, bốc đồng.
- Nếu quả thực Trung Cộng giận dữ v́ Hải Quân ta nổ súng sáng ngày
19.01.1974 đến mức xâm chiếm ngay, không nghĩ ngợi, toàn bộ quần đảo Hoàng
Sa th́ trong cơn giận dữ ấy, họ đă hạ sát ngay những người Việt bị bắt làm
tù binh, hay ít ra cũng giam cầm họ lâu ngày và mở ra những vụ án để hài tội
chứ không đời nào lại phóng thích ngay sau vài ba tuần lễ.
- Không thể nói rằng chính quyền cộng sản Hà Nội đă có thái độ khiêu khích
Trung Cộng hay đă luôn biểu lộ thái độ đối kháng với Trung Cộng. Không ai
nói là chiến hạm của chính quyền Hà Nội đă nổ súng trước, bắn vào hạm đội
Trung Cộng. Vậy mà thái độ ḥa hoăn, nhường nhịn ấy không ngăn cản Trung
Cộng đầu năm 1988 đưa hải quân xuống chiếm cứ một số hải đảo trong quần đảo
Trường Sa.(4)
Những nhận xét trên đây cho ta nghĩ là sự kiện Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa đă
khai hỏa ở Hoàng Sa ngày 19.01.1974 không phải là nguồn gốc của vụ Trung
Cộng quyết định chiếm trọn quần đảo này.
5/ Có hy vọng khôi phục chủ quyền trên đảo Hoàng Sa không?
Bài học mà chúng ta có thể rút ra từ kinh nghiệm Hoàng Sa 1974, theo thiển ư
của tôi, gồm hai mặt, như mặt phải mặt trái của một đồng tiền:
- Trong công cuộc bảo vệ những quyền lợi sống c̣n của đất nước, chúng ta
không thể trông cậy ở người ngoài mà chỉ có thể trông chờ ở chính ḿnh. Thế
giới biến chuyển không ngừng, các cuộc liên minh quốc tế luôn đổi thay theo
quyền lợi riêng ở mỗi quốc gia. V́ thế ta không thể ỷ lại vào bên ngoài mà
chỉ nên trông cậy ở ḿnh. Như lời của một vị cách mệnh lăo thành đă nói:
“Trông chờ ở người ngoài là chết” (vọng ngoại tắc tử).
- Nói về chuyện trông cậy ở chính ḿnh, chúng ta nên nhớ là nước ta không có
đất rộng mênh mông, không có tài nguyên vô tận, không có biên thùy hiểm trở
chẳng thể vượt qua. Sức mạnh của chúng ta chỉ t́m thấy ở bàn tay và khối óc
của người dân. V́ vậy chúng ta chỉ mạnh khi dân chúng ta hợp thành một khối
đoàn kết vững vàng, tuy bao gồm nhiều sắc thái khác nhau nhưng tất cả cùng
chung một ư chí sắt đá bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lănh thổ. Điều
này giả thiết một chính quyền thực sự của dân, do dân, v́ dân, không để chỗ
cho chuyên quyền độc đoán.
Vận nước nào cũng có khi thăng khi trầm, quốc gia nào cũng có lúc suy lúc
thịnh. Khi thời cơ đă trở nên thuận lợi cho Việt Nam, chúng ta có thể đặt
lại vấn đề chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa với Trung Quốc và đ̣i họ trả lại
quần đảo này cho Việt Nam, hoặc qua thương thuyết tay đôi, hoặc qua một phán
quyết trọng tài hay tài phán quốc tế, hoặc do sự tranh đấu can trường và bền
bỉ của quân dân Việt Nam.
Ngày 15.05.1974, trong dịp điều trần về chính sách ngoại giao Việt Nam Cộng
Ḥa trước Ủy Ban Ngoại Giao và Thông Tin, Thượng Viện VNCH, về vấn đề Hoàng
Sa, tôi đă kết luận: “Vụ Hoàng Sa nhất định chưa là chấm dứt”.
Ba mươi ba năm sau, khi viết những ḍng này, tôi vẫn nghĩ như vậy.
Paris, ngày 02.04.2007
Vương Văn Bắc
Chú thích:
(1) Toàn văn bản Tuyên Cáo 015 / BNG / TTBC / TT có được đăng trong sách của
Ô. Vũ Hữu San – Trần Đỗ Cẩm, ‘Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa’, tr. 160, 161.
(2) Xin xem Vũ Hữu San – Trần Đỗ Cẩm, sách đă viện dẫn, tr. 214-216.
(3) Xin xem “Encyclopedia Britannica’, ‘International Court of Justice’:
States which have not accepted compulsory jurisdiction may not be sued
without their consent.
(4) Xin xem sách ‘Cộng Sản Trên Đất Việt’ quyển II, tr. 356, tác giả GS
Nguyễn Văn Canh, Kiến Quốc Phát Hành 2002.
|